Friday, September 11, 2009

Phỏng vấn Trần Phong Vũ (Đinh Quang Anh Thái)

Phỏng vấn nhà văn Trần Phong Vũ

về sự kiện Tam Tòa

Monday, July 27, 2009


Nhà văn Trần Phong Vũ, "người Công Giáo Việt Nam hải ngoại cần hiệp thông với giáo dân Tam Tòa bằng lời cầu nguyện, xin Thiên Chúa nâng đỡ bà con..."


Tại sao giáo phận Vinh quyết liệt và đồng loạt?
Thực hiện: Ðinh Quang Anh Thái


LTS: Sự kiện đang diễn ra tại giáo xứ Tam Tòa, giáo phận Vinh, tạo nên sự chú ý đặc biệt của người Việt Nam trong và ngoài nước nói chung, và cộng đồng Công Giáo nói riêng. Giới quan sát nhận định, rằng sự leo thang sử dụng bạo lực từ phía chính quyền cho thấy Hà Nội "lúng túng" nhưng "sẵn sàng cho mọi hình thức đàn áp." Trong lời nhận định với nhật báo Người Việt, nhà văn Trần Phong Vũ nói rằng có nhiều yếu tính tạo thành "nguyên động lực dẫn tới những phản ứng mau lẹ, quyết liệt và đồng loạt của tập thể tín hữu giáo phận Vinh."

 

Ông Trần Phong Vũ nguyên là bình luận gia đài phát thanh Sài Gòn trước năm 1975, giảng dạy quốc văn tại một số trường tại Sài Gòn, từng giữ mục tham luận chính trị cho nhật báo Sóng Thần. Hiện ông đang giữ vị trí Chủ Bút Nguyệt San Diễn Ðàn Giáo Dân tại California, Hoa Kỳ. Xin giới thiệu nguyên văn cuộc trả lời phỏng vấn của ông Trần Phong Vũ với phóng viên Ðinh Quang Anh Thái sau đây.


-Ðinh Quang Anh Thái: Xin ông cho biết cảm tưởng của ông về những biến động trong mấy ngày qua tại giáo xứ Tam Tòa, giáo phận Vinh?


-Nhà văn Trần Phong Vũ: Tôi không ngạc nhiên khi đọc những bản tin, quan sát những hình ảnh ghi nhận đông đảo giáo dân tại hàng chục giáo xứ thuộc giáo phận Vinh, chấp hành lời kêu gọi của Tổng Giám Mục, tụ tập cầu nguyện để tỏ tình liên đới hiệp thông với Tam Tòa sáng Chúa Nhật 26 Tháng Bảy vừa qua, mà theo phỏng đoán, người ta cho rằng tổng cộng có thể tính tối hàng trăm ngàn người.

 

Ðối với tôi, muốn hiểu rõ căn nguyên cội rễ dẫn tới những biến cố sôi bỏng hiện nay ở Tam Tòa, cần phải nhìn vào ba yếu tính căn bản mà mới nhìn, tưởng như không có gì liên hệ với nhau, nhưng lại có những gắn bó nhân quả, tương tác không thể thiếu vắng để làm nên biến cố này:
Thứ nhất: Niềm tin Kitô Giáo.
Thứ hai: Lòng yêu nước và truyền thống bất khuất.
Thứ ba: Liên hệ hỗ tương giữa giáo phận Vinh và tổng giáo phận Hà Nội qua biến cố tòa khâm sứ cũ và giáo xứ Thái Hà.

(Việc sắp xếp thứ tự không có giá trị ưu tiên trên dưới cho mỗi yếu tính)

Chính ba yếu tính này là nguyên động lực dẫn tới những phản ứng mau lẹ, quyết liệt và đồng loạt của tập thể tín hữu giáo phận Vinh trước sự kiện nhà nước CSVN có hành vi bách hại tôn giáo ở Tam Tòa.


-Ðinh Quang Anh Thái: Người Công Giáo thường nói tới từ "hiệp thông." Xin ông cho biết: từ này có nghĩa là gì?


-Nhà văn Trần Phong Vũ: Theo từ nguyên, hiệp thông (communion) có nghĩa là mối liên hệ, chia sẻ giữa người với người. Riêng với người có tín ngưỡng Kitô Giáo và người Công Giáo, nói riêng, hiệp thông (communion) mang một ý nghĩa thánh thiêng giữa những người cùng có chung một niềm tin nơi Ðấng Cứu Thế. Cho nên trong Anh ngữ, "communion" hay "Holy communion" (hiệp thông) còn được dùng để chỉ việc truyền phép Thánh Thể, trao Mình và Máu Chúa Kitô cho các tín hữu, một hành vi được coi là cốt lõi, là đích điểm trong đời sống đức tin của người Công Giáo.


Khi xảy ra biến cố tòa khâm sứ cũ hoặc Thái Hà trước đây, đặc biệt tại Tam Tòa hiện nay, chúng ta đọc hoặc nghe nhắc tới rất nhiều lần từ "hiệp thông" trong các bản tin, những văn thư gửi các tín hữu Công Giáo của các thành phần trong Giáo Hội/Công Giáo Việt Nam với mục đích kêu gọi hoặc tự nguyện hiệp thông với Tòa Tổng Giám Mục Hà Nội, với giáo dân Thái Hà, Tam Tòa. Trong những trường hợp này, "hiệp thông" trước hết, mang ý nghĩa cùng chia sẻ, cảm thông trước cảnh ngộ và trong tâm tình cầu nguyện nhắm vào mục tiêu giáo dân ở những nơi này đang theo đuổi. Thứ đến, một cách thực tế "hiệp thông" cũng được hiểu là sẵn sàng làm những gì cụ thể nhất để chia sớt với đối tượng trong trách nhiệm chung.


-Ðinh Quang Anh Thái: Hiểu như thế, theo ông, người Công Giáo Việt Nam ở hải ngoại hiệp thông như thế nào với giáo dân Tam Tòa hiện nay?


-Nhà văn Trần Phong Vũ: Như tôi đã nói, hiệp thông là cùng nhau chia sẻ, cảm thông với cảnh ngộ của những người chung quanh. Ở đây được hiểu là hiệp thông với trường hợp giáo dân Tam Tòa đang bị Cộng Sản bách hại. Như vậy, trước hết, người Công Giáo Việt Nam ở hải ngoại cần hiệp thông với giáo dân Tam Tòa bằng lời cầu nguyện, xin Thiên Chúa nâng đỡ bà con, cất khỏi bà con hoàn cảnh đau thương khốn khó hiện nay.

 

Bên cạnh đó là những việc làm cụ thể như nói thay cho đồng đạo của mình, giúp dư luận người ngoại quốc thấy được thực chất của vấn đề đang xảy ra cho bà con đồng đạo ở Tam Tòa và nói chung trên đất nước chúng ta hôm nay. Dĩ nhiên, tùy theo sáng kiến và điều kiện riêng, mỗi người, mỗi đoàn thể còn có những phương thức đặc thù khác để tỏ tình hiệp thông và nâng đỡ một cách thiết thực những giáo dân bất hạnh ở Tam Tòa trong cảnh ngộ trên đe dưới búa vì chủ nghĩa vô thần hiện nay.


-Ðinh Quang Anh Thái: Xin cảm ơn ý kiến của ông.




Chúng ta học được gì qua hành động tự sát của DGM John Joseph ?


http://www.vietcatholic.net/pics/PAKISTAN_-_0507_-_Mons__John.jpg

 

CHÚNG TA HỌC ĐƯỢC GÌ

QUA HÀNH VI TỰ SÁT CỦA GIÁM MỤC JOHN JOSEPH?

 

* Lề luật trong Giáo Hội Công Giáo nói gì về hành vi tự sát?

* Đức Giám Mục John Joseph tự tìm cái chết để phá vỡ

  "nền văn hóa thinh lặng" trước sự ác.

* Chúa Giêsu đến không phải để phá bỏ nhưng để hoàn chỉnh Lề luật.

* Bài học hôm nay

Trần Phong Vũ

 

Giáo lý Giáo Hội Công Giáo về tự sát

 Số 2280: Mỗi người chịu trách nhiệm về sự sống của mình trước mặt Thiên Chúa là Đấng ban sự sống [….] Chúng ta không có quyền định đoạt về mạng sống của mình.

Số 2281: Tự sát nghịch với khuynh hướng tự nhiên … Lỗi phạm nặng nề đến tình yêu chính đáng đối với bản thân. Tự sát còn xúc phạm đến tình yêu đối với người thân cận […] Tự sát đối nghịch với tình yêu của Thiên Chúa hằng sống

Số 2282:  […] Luân lý cấm cộng tác vào việc tự sát. Người tự sát vì những rối loạn tâm thần trầm trọng, quá lo âu và sợ hãi trước một thử thách, trước đau khổ hoặc sợ bị tra tấn, có thể được giảm bớt trách nhiệm.

Số 2283: Ta không được tuyệt vọng về phần rỗi đời đời của những người tự tử. Thiên Chúa có thể thu xếp cho họ có cơ hội sám hối để được ơn tha thứ […] Hội Thánh vẫn cầu nguyện cho những người hủy hoại mạng sống mình.

 Hai tác giả Lê Thiên và Lê Tinh Thông đã trích dẫn những đoạn giáo lý của GHCG trên đây trước khi bắt đầu bài viết về trường hợp tự sát của đức cha John Joseph, Giám mục Chính tòa Giáo phận Faisalabad, trong mục Gương Sống Đạo Giữa Đời do hai anh phụ trách trên nguyệt san Diễn Đàn Giáo Dân số 70 phát hành tháng 9 năm 2007. Dựa vào những chi tiết về cuộc đời, quá trình bảo vệ nhân quyền và nhất là tâm thức của người mục tử đầy lòng yêu thương và quả cảm trong Giáo Hội Công Giáo Pakistan, người viết bài này muốn cùng độc giả suy tư, bàn giải và rút ra một bài học cho đất nước, cách riêng cho Giáo Hội Công Giáo Việt Nam hôm nay.

 I.- Quyền tối thượng của Thiên Chúa trên sự sống

 Sự sống của con người đến từ Thiên Chúa và do Thiên Chúa định đoạt. Điều Răn Thứ Năm trong Thập Điều ghi rõ: Chớ Giết Người!. Điều răn này bao hàm luôn cả luật cấm không được tự ý lấy đi mạng sống của chính mình (tự sát).

 Như thế, trên nguyên tắc, hành vi tự sát là một trọng tội được qui định rõ ràng bằng giấy trắng mực đen trong sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo. Từ Điều Răn Thứ Năm trong Thập Điều, Giáo Hội cũng coi hành vi phá thai là giết người và ngăn cấm người mẹ không được triệt hủy bào thai trong lòng bà ở bất cứ giai đoạn nào, dù biện minh thai nhi là phần thân thể của chính mình để tự cho mình cái quyền được giữ lại hay giũ bỏ.

http://www.irw.org/upload/images/pakistan043008.jpg

 Cùng một tâm thức như thế, người thày thuốc không được áp dụng y thuật để giúp người mắc những chứng bệnh nan y tìm kiếm cái chết êm dịu cho đương sự.

Tuy vậy, qua hai số 2282 và 2283 trong sách giáo lý, Giáo Hội Công Giáo mở ra một cái nhìn khác cho khách bàng quan khi nghĩ về số phận chung cuộc của những người tự ý kết liễu đời mình. Giuda Iscariot, một trong 12 môn đệ của Chúa Giêsu đã treo cổ tự tử sau khi nhận 30 đồng bạc của giới lãnh đạo tôn giáo thời ấy để bán đứng Chúa Giêsu cho kẻ ác. Hiểu giáo luật một cách vô cảm, khô cứng, người ta thường mang định kiến là với hành vi treo cổ tự sát, Giuda đã mất linh hồn, sa hỏa ngục đời đời. Nó gần như một chuyện đương nhiên không cần tranh cãi!

 Nhưng nếu được trang bị bằng cặp mắt nhân hậu của Chúa Giêsu để nhìn sâu vào tâm trạng đớn đau tuyệt vọng của Giuda, với vai trò định mệnh làm môi giới cho kẻ ác đóng đinh Chúa Giêsu, khi chứng kiến tận mắt cảnh Thày mình bị đem đi luận giết, người tín hữu vẫn có được những ý nghĩ bao dung là lòng thương xót bao la của Thiên Chúa sẽ có cách cứu vớt ông vào phút chót. Bởi vậy sách giáo lý mới ghi thêm rằng:

"Ta không được tuyệt vọng về phần rỗi đời đời của những người tự tử. Thiên Chúa có thể thu xếp cho họ có cơ hội sám hối để được ơn tha thứ". Và  "Người tự sát vì những rối loạn tâm thần trầm trọng, quá lo âu và sợ hãi trước một thử thách, trước đau khổ hoặc sợ bị tra tấn, có thể được giảm bớt trách nhiệm".

 II.- Giám Mục John Joseph: Một trường hợp ngoại lệ,
một tiếng nói Ngôn Sứ họa hiếm trong thời đại chúng ta

 Những chi tiết có được về cuộc đời, sự nghiệp, những thành tích đấu tranh kiên trì nhằm bảo vệ công lý, tự do, nhân quyền của đức cha John Joseph, Giám mục cai quản Giáo phận Faisalabad ở Hồi Quốc, nhất là căn nguyên sâu xa và mục tiêu cao cả khiến ngài quyết định bắn vào đầu, tự sát ngày 06-5-1998 tại tiền đình tòa án của thành phố Sahiwal, cho thấy cái chết của ngài là một trường hợp ngoại lệ, mang một ý nghĩa khác.

Đức cha tự tìm cái chết cho ngài không phải vì quá âu lo, tuyệt vọng hay rối loạn tâm thần. Ngài cũng không có điều gì phải đau đớn, ân hận như trường hợp Giuda Iscariot. Trái lại, khi nổ súng tự kết liễu sinh mạng của mình, ngài ở trong một tâm thái hoàn toàn bình an, sáng suốt hơn tất cả bao giờ.

Sự kiện đức cha John Joseph tự sát vượt lên trên mọi phán đoán thông thường. Trong ngót hai chục năm với cương vị mục tử, ngài đã nói, đã làm thật nhiều cho công lý và nhân quyền trên quê hương Pakistan của ngài.

http://www.middleeastwindow.com/images/articles/pakistan.jpg

Để đánh giá đúng mức được tấm gương can đảm phi thường của người cầm đầu Giáo phận Faisalabad, chúng ta cần đặt vào bối cảnh Pakistan, nơi Đạo Hồi được coi như quốc giáo, trong đó các giáo trưởng có toàn quyền sinh sát và chi phối mọi luật lệ trong xứ.

Đấy là một trong những tiếng nói Ngôn Sứ họa hiếm trong thời đại chúng ta. Và cái chết của đức cha là tiếng nói quyết liệt cuối cùng, vang động, tiếng nói có giá trị chọc thủng màn đêm của thứ "văn hóa vô cảm", thứ "văn hóa câm lặng", thứ "văn hóa thỏa hiệp với sự ác" của con người hôm nay. (Cái tôn giáo tàn độc, bất khoan dung ở Pakistan 10 năm trước, trên một khía cạnh nào đó, đâu có khác gì chủ nghĩa độc tài, độc đảng, vô tôn giáo trên đất nước chúng ta hiện nay!)

 Chào đời ngày 15/11/1932 tại Khuspur, Pakistan nơi phần đông dân chúng theo Hồi Giáo, từ thuở thiếu thời, chàng thiếu niên John Joseph đã quyết định lựa chọn bậc sống tu trì. Ngày 18/01/1960, cha thụ phong linh mục và chẵn 20 năm sau được bổ nhiệm làm Giám mục phụ tá Giáo phận Faisalabad, Pakistan. Khi ấy ngài 48 tuổi. Hơn ba năm sau, nhằm ngày 09-01-1984, ngài được bổ nhiệm làm Giám mục Chính tòa Giáo phận Faisalabad. Trong suốt thời gian cai quản Giáo phận Faisalabad, đức cha John Joseph luôn là người giữ giải quán quân trong lãnh vực tranh đấu bảo vệ nhân quyền, và kể từ năm 1984 cho đến khi tự tìm cái chết ngày 06/5/1998, thọ 66 tuổi, ngài từng liên tục nắm giữ vai trò Chủ tịch Ủy ban Toàn quốc Công lý & Hòa bình trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Pakistan.

 

Trong một Tuyên ngôn công bố ngày 24-8-2001, Ủy Ban Toàn Quốc về Công Lý & Hòa Bình Pakistan cho hay:

"Đức Cha John Joseph, 66 tuổi, Giám mục Công giáo Giáo phận Faisalabad và là nhà hoạt động nổi tiếng cho nhân quyền, đã tự sát bằng súng ngay tại hành lang tiền đường Tòa án ở Sahiwal (cách thủ đô Islamabad Pakistan 700 kilômét) giữa lúc Tòa án đang mở phiên xét xử một vụ án vào khoảng 9 giờ 30 tối ngày 06/5/1998, để phản đối bản án tử hình ngày 27/4/1997 dành  cho anh Ayub Massih về tội danh gọi là phạm thượng đối với đạo Hồi. Ayub Massih là một Kitô hữu trẻ thuộc giáo phận của Đức Cha John Joseph. Anh bị hành quyết ngày 06/11/1997 do kết quả của bản án bất công nêu trên".

Tiếp theo, bản Tuyên Ngôn đã tóm tắt những thành tích đấu tranh cho công lý và nhân quyền của ngài, đặc biệt trong những năm cuối đời, kể từ đầu thập niên 90 khi Điều 295-C trong Bộ Hình Luật của Pakistan được tu chính để đổi án phạt tù thành tử hình những ai bị qui kết là xúc phạm đạo Hồi. Đây là thời gian rất nhiều người dân Pakistan vô tội, trong số có người theo Tin Lành hoặc Công Giáo, đã bị sát hại cách oan uổng. Tuyên Ngôn ghi nhận:

 "Đức giám mục John Joseph đã từng lãnh đạo hai cuộc biểu tình phản đối toàn quốc của Cộng đồng Kitô giáo, và cả tuyệt thực, để dương cao chính nghĩa bảo vệ công lý và nhân quyền. Cuộc phản đối thứ nhất diễn ra năm 1992 nhằm chống lại một nghị quyết của chính quyền Pakistan bắt buộc ghi tín ngưỡng tôn giáo vào thẻ căn cước. Người Kitô hữu và các thành phần thiểu số khác nhận thấy thẻ căn cước mới là một âm mưu của Nhà nước Pakistan tạo nên kỳ thị và gây khủng bố, gia tăng số nạn nhân trong các nhóm tôn giáo thiểu số.

"Cuộc phản đối toàn quốc lần thứ hai của ngài diễn ra năm 1994 cực lực chống lại việc hành quyết ông Manzoor Masih, một Kitô hữu bị kết tội phạm thượng khi cuộc hành quyết được thực hiện bên ngoài tòa án sau phiên tòa ngày 05/4/1994.

"Ngày 20/3/1998, Đức Giám mục John Joseph cầm đầu một cuộc mít tinh liên tôn đoàn kết Kitô hữu tổ chức tại Vienna (Áo quốc), trong đó có sự tham dự của các giới chức trong hàng giáo phẩm Công Giáo cũng như Tin Lành. Ngài thuyết giảng một bài nói lên tình trạng bách hại các nhóm tôn giáo thiểu số ở Pakistan, đặc biệt là sự tác hại của đạo luật về tội phạm thượng. Đức Giám mục nói: 'Chúng tôi phản đối đạo luật ấy bởi vì nó là một cản trở lớn cho mối quan hệ giữa người Hồi giáo và người Kitô giáo. Chúng tôi sẽ đấu tranh tới cùng, và hình thức đấu tranh sẽ tùy cơ ứng biến'".

 Cuộc vận động cho công lý và nhân quyền lần cuối này của đức cha John Joseph diễn ra hơn 4 tháng sau khi người Kitô hữu thuộc Giáo phận của ngài tên Ayub Massih bị hành quyết. Hơn một tháng sau, vào buổi trưa ngày 06-5-1998, với dáng trầm tư, đức cha John Joseph từ chối ăn uống và yêu cầu linh mục Yaqoob Farooq đi cùng với ngài tới Tòa án nơi đã xử tử hình Ayub Masih sáu tháng trước đó. Khi gần tới nơi, đức cha bảo cha Yaqoob ngừng lại, để mình ngài tiến lên tiền đình tòa án. Ít phút sau, nghe tiếng súng nổ chát chúa, cha Yaqoob vội vã chạy tới chỗ Đức Cha mới hay ngài đã tự bắn vào đầu và chết ngay lập tức.

 III.- Một cái chết làm rúng động lương tâm nhân loại

 Tháng 5-2007 vừa qua, nhân dịp kỷ niệm tròn 9 năm ngày đức cha John Joseph quyên sinh, một hội nghị đã khai diễn tại Faisalabad trong hai ngày liên tiếp (05 & 06-5-2007). Dịp này mọi người, mọi giới đã nhất loạt lên tiếng ngợi ca tinh thần vị tha, thái độ quả cảm, đầy lòng yêu thương và luôn hi sinh, quên mình của ngài. Hãng thông tấn AsiaNews từ Faisalabad cho rằng vị giám mục quá cố của Giáo phận Faisalabad -Đức Cha John Joseph- là "tiếng nói của những người không có tiếng nói, là tấm gương anh dũng phụng sự Tin Mừng". Sự hy sinh của ngài là "tiếng kêu trong hoang địa thổi bay chiếc mạng vải của thinh lặng mà chủ nghĩa cực đoan đã chụp phủ lên".

Trong dịp này, cả hai cộng đồng Công giáo và Hồi giáo cùng tập họp với nhau tại Faisalabad để làm lễ truy niệm năm thứ chín ngày ngài lìa đời. Người ta ghi nhận đây là một dấu hiệu tích cực cho triển vọng cải thiện mối liên hệ giữa các tín hữu thuộc hai tôn giáo và là hoa trái đầu mùa do cái chết của đức cha John Joseph mang lại.

Đức cha Joseph Coutts, đương kim Giám mục Giáo phận Faisalabad quả quyết rằng giám mục John Joseph "luôn luôn hiến thân chống lại mọi bách hại nhằm vào đoàn chiên của mình. Ngài thể hiện việc hiến dâng ấy một cách đầy ý thức và tinh thần phụng sự. Một sự dấn thân đầy niềm tin và tinh thần trách nhiệm. Nhân cách trổi vượt của ngài là mẫu gương sáng chói để chúng ta kiên trì đấu tranh cho nhân quyền, hòa bình và công lý".

Còn Cha Aftab James, Giám đốc Văn phòng Giáo phận thuộc Ủy ban Toàn quốc về Đối thoại Liên tôn và Hợp nhất Kitô giáo, thì nói: "Đức Cha John Joseph là tiếng nói của những người dân Pakistan bị phân biệt đối xử. Ngài đánh vỡ cái nền văn hóa thinh lặng (he broke the culture of silence) và ngài đã lên tiếng chống lại giới cực đoan trong nước khi mà chẳng có ai dám lên tiếng như vậy. Chúng ta đừng hạ thấp cuộc đấu tranh vĩ đại của ngài bằng cách chỉ mở những hội thảo và truy điệu hàng năm mà thôi. Trái lại, chúng ta hãy đưa tinh thần đấu tranh của ngài thâm nhập vào trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta".

Còn theo bà Shamim Khataq, một luật sư Hồi giáo, thì Giám mục John Joseph chính là một "Shaheed-e-Azam – một vị tử đạo vĩ đại, và là người bạn của mọi người bất kỳ thuộc tôn giáo nào". Bà Khataq nói: "Tôi yêu mến và kính trọng ngài thật nhiều bởi vì ngài luôn luôn nói về phẩm giá của con người. Tôi nhớ ngài suốt đời".

 

IV.- Yêu thương: luật tối thượng trong Đạo Chúa Giêsu

 Trong một bài giảng vào khoảng cuối thập niên 80 ở Sàigòn, linh mục Nguyễn Khảm[1] nói: khi đã hoàn tất luật yêu thương, người ta có thể bất chấp mọi lề luật. Đọc bài viết về trường hợp đức cha John Joseph tự sát 9 năm trước ở Pakistan, nhớ lại nội dung lời giảng thuyết trên đây của cha Khảm, người viết tìm vào Kinh Thánh và đọc được hai đoạn sau đây trong Thư Thánh Phaolô Gửi Tín Hữu Ga-Lát:

"Tất cả lề luật được nên trọn trong điều răn duy nhất này: 'Người phải yêu người thân cận như chính mình'" (Gl: 5.15)

"Nếu anh em để cho thần khí[2] hướng dẫn thì anh em không còn bị lệ thuộc vào lề luật nữa" (Gl: 5.19)

Tin Mừng theo Thánh sử Mát-Thêu cũng ghi lại những lời dạy sau đây của Chúa Giêsu:

"Hôm ấy, vào ngày sa-bát, Chúa Giêsu đi băng qua một cánh đồng lúa; các môn đệ thấy đói và bắt đầu bứt lúa ăn. Người Pha-ri-siêu thấy vậy, mới nói với Chúa Giêsu: 'Ông coi, các môn đệ của ông làm điều không được phép làm ngày sa-bát'. Người đáp: 'Các ông chưa đọc trong sách sao? Ông Đa-vít đã làm gì khi ông và thuộc hạ đói bụng? Ông vào nhà Thiên Chúa và đã cùng thuộc hạ ăn bánh tiến. Thứ bánh này họ không được phép ăn, chỉ có tư tế mới được ăn mà thôi…..Nếu các ông hiểu được ý nghĩa của câu này: 'Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần của lễ' ắt các ông đã chẳng lên án kẻ vô tội. Quả thế, Con Người làm chủ ngày Sa-bát.

"Chúa Giêsu bỏ đó mà đi vào hội đường của họ. Tại đây, có người bị bại một tay. Người ta hỏi Chúa Giêsu rằng: 'Có được phép chữa bệnh ngày sa-bát không"' Họ hỏi thế là để tố cáo Người. Người đáp: 'Ai trong các ông có một con chiên độc nhất bị sa hố ngày sa-bát mà lại không mà kéo lên sao? Mà người thì quí hơn chiên biết mấy! Vì thế, ngày sa-bát được phép làm điều lành'". (Mt: 12,1-12)

 Dưới mắt phàm nhân, đức cha John Joseph đã phạm tội trọng vì đã công nhiên chối bỏ Điều Răn Thứ Năm trong Thập Điều. Ngài đã nổ súng vào đầu để tự hủy mạng sống của mình, điều chỉ có Thiên Chúa mới có quyền định đoạt. Là người đã được vinh dự chia sẻ thiên chức linh mục của Chúa Giêsu –Vị-Linh-Mục-Thượng-Phẩm-Đời-Đời-, hơn tất cả ai khác, đức cha ý thức rất rõ điều đó. Và với trạng thái tâm hồn thật thanh thản, bình an, với ý thức thật sáng suốt, ngài đã lựa chọn cho mình cái chết bằng cách tự sát.

Tự sát để xé toang màn đêm tăm tối của sự im lặng,

Tự sát để đánh thức lương tri con người.

 Đoạn đời phía trước của người mục tử này được đan kết bằng những hoa trái của yêu thương, được chiếu sáng bởi Thánh Thần Thiên Chúa (Thần Khí) để bất chấp gian nan nguy hiểm, không mệt mỏi lao mình vào cuộc đấu tranh cho công lý và nhân quyền, như chủ chiên dám quên mình để bảo vệ chiên con giữa bày sói dữ. Hiển nhiên, đức cha John Joseph là người đã nắm bắt được tinh hoa của Lời Thiên Chúa để thấy được giá trị vô đối của lòng yêu thương vượt lên trên mọi lề luật, nhất là khi lề luật được tô vẽ, giải thích bởi thái độ xu phụ cường quyền, bạo lực và lòng vị kỷ với ẩn ý phục vụ những mục tiêu thấp hèn của con người.

Nhìn sự việc bằng cặp mắt của Chúa Giêsu -Đấng Yêu Thương-, Đấng đã từ bỏ Ngôi Trời để chia sẻ phận người và đã chết treo trên Thập Giá chỉ vì yêu, Đấng đã nhân danh Chúa Cha nói với những người Pharisiêu ngày xưa rằng: "Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần của lễ", chúng ta sẽ hiểu được ý nghĩa và giá trị hành vi tự hủy của người mục tử mang tên John Joseph của Giáo Hội Pakistan, một Giáo Hội nhỏ bé, cô đơn giữa một thế giới đầy dẫy hận thù, không khoan nhượng.

Từ đấy, chúng ta cũng hiểu được tâm trạng cô đơn và nỗi bức xúc khôn nguôi của cố HY Trịnh Như Khuê qua những đêm ngày dài cầu nguyện với những bước chân xoi mòn sân thượng của tòa TGM Hànội sau tháng 7 năm 1954, của cố TGM Nguyễn Kim Điền sau ngày lá cờ biểu tượng cho tù đày, chết chóc tung bay trên thành phố Huế, của cố HY Nguyễn Văn Thuận trong 13 năm trong ngục tù cộng sản và của các linh mục Nguyễn Văn Lý, Chân Tín, Nguyễn Hữu Giải, Phan Văn Lợi trong cuộc chiến đấu với những thế lực bạo tàn, gian dối trên quê hương hôm nay, nơi cha Lợi, cha Lý đã từng ra tù vào khám, cha Chân Tín từng bị quản chế và cha Giải cùng chia chung cảnh ngộ cùng quẫn của những tù nhân lương tâm không ở tù.

 V.- Từ chuyện người, ngẫm chuyện nhà

 Trong thâm tâm, người viết muốn dành những giòng cuối này để nhân cái chết bi hùng của đức cha John Joseph cùng người đọc suy tư về cảnh ngộ đau thương, bất hạnh[3] của Giáo Hội và Quê Hương chúng ta hôm nay. Những nỗi e ngại sẽ bị những ai đó khoác cho tội danh là chống phá Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, chống phá Giáo Hội Việt Nam, nên chúng tôi đành tạm kết thúc ở đây để nhường quyền phán xét và nhận định cho quí độc giả.

 Nam California, Hoa Kỳ đầu thu 2007

Trần Phong Vũ


[1] Cuối thập niên 80 và đầu thập niên 90, linh mục Nguyễn Khảm nổi tiếng là một nhà thuyết giảng tài ba. Cha thường giảng ở nhà thờ Đức Bà và các nhà Dòng quanh khu vực Sàigòn. Nội dung những bài giảng với ý nghĩa thâm sâu này của cha thường được thu băng và chuyển ra hải ngoại. Vào thời gian ấy, nhóm Gioan Tiền Hô, gồm những anh em chủ biên nguyệt san Đường Sống (1980-1992) và nguyệt san Diễn Đàn Giáo Dân ngày nay, đã sang lại hàng loạt để chia sẻ với bà con trong cộng đồng tị nạn ở hải ngoại. Theo Nhật Ký Nguyễn Ngọc Lan thì nhiều lần cha bị Nhà Nước cấm giảng vì nội dung bất lợi cho chế độ.

[2] Thần Khí biểu tượng cho sức mạnh của Thiên Chúa Ngôi Ba, Đấng tượng trưng cho Tình Yêu và Lòng Mến.

[3] Xin đọc lại lá thư của ĐHY Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn gửi linh mục Nguyễn Thái Hợp và CL:B Phaolô Nguyễn Văn Bình ngày 22-7-2007 và là thư ngài gửi linh mục Nguyễn Tấn Khóa, Chủ tịch UBĐKCGVN cách đâ mấy năm. Được biết nộI dung lá thư này được coi là "đứa con song sinh" của một văn thư do HĐGMVN gửI kín cho nhà cầm quyền CSVN trước đó.

 

Thursday, September 10, 2009

Tôi đọc Nhật Ký Truyền Giáo của Cha Piô Ngô Phúc Hậu


TÔI ĐỌC NHẬT KÝ TRUYỀN GIÁO

CỦA CHA PIÔ NGÔ PHÚC HẬU

                               
(bài 4)                                        Trần Phong Vũ

 

            Trong lá thư viết riêng cho người đọc Nhật Ký gửi về tòa soạn Diễn Đàn Giáo Dân đề ngày 15-11-01, một độc giả ký tên là Phạm Duy Phương viết:"tôi rất thích loạt bài 'Tôi Đọc Nhật Ký Truyền Giáo Của Cha Piô Ngô Phúc Hậu' do ông phụ trách. Cách đây mấy năm tôi cũng đã có dịp đọc qua cuốn nhật ký này. Tôi nhớ mang máng có nhiều đoạn cha Hậu đã ghi lại những chi tiết mà nếu trí nhớ của tôi không tồi thì nó gợi cho người giáo dân nghĩ tới những vấn đề nhức nhối đang đặt ra trong lòng Giáo hội Việt nam hiện nay. Xin ông coi lại và nếu tìm được những đoạn có nội dung như thế, tôi mong được ông chia sẻ những suy tư của ông……"

            Trước hết, người đọc Nhật Ký xin tạ lỗi cùng ông Phạm Duy Phương. Quả thật chúng tôi đã mắc phải cùng một trật hai lỗi lớn. Thứ nhất là không đọc kỹ. Vì thế dẫn tới sự sai sót đương nhiên, thứ hai là không nêu được những ghi nhận của tác giả nhật ký liên quan tới những vấn đề thời sự nóng bỏng trong lòng Giáo hội chúng ta hôm nay như ông Phạm đã viết. Để chuộc lại thiếu sót kể trên, kể từ số báo đầu năm 2002 này, chúng tôi sẽ cố gắng lật tìm những sự kiện cùng những suy tư của tác giả nhật ký liên hệ tới những vấn đề thời sự đang xảy ra chung quanh cuộc sống chúng ta.

http://nhasachttgmhanoi.com/pic/prods/633820747521361584.gif

            Thật may mắn, người đọc đã không phải mất công tìm tòi phí thì giờ vô ích. Chỉ với một chương ngắn 4 trang từ trang 76 đến 79 mang tiêu đề 'Công Bằng Xã Hội', cha Piô đã cung ứng cho chúng tôi không phải một mà tới bốn đề tài lớn liên quan tới yêu sách chính đáng mà độc giả họ Phạm đã nêu ra trong lá thư trên đây.

 

            Nơi trang 78, tác giả nhật ký viết.

            "Cái Răng……

            Hôm nay mình ghé chủng viện Cái Răng. Phòng đầu tiên mà mình bấm chuông là phòng cha giáo Chương. Cha giáo đang duyệt phim.

            - Cha Piô coi phim 'Les Missions' chưa?
- Về phim ảnh thì mình dốt đặc cán mai, dài cán thón[1][79] . Bác tóm tắt giùm coi. Hết sức vắn tắt thôi.

            - Phim mô tả cảnh thực dân da trắng tấn công các bộ lạc da đỏ. Các nhà truyền giáo thì có hai thái độ: thái độ một, đứng hẳn về phía người da đỏ, cầm vũ khí chống lại thực dân. Thái độ hai, khước từ bạo lực, chỉ rao giảng và cầu nguyện. Nhưng cuối cùng thì thực dân tấn công và tiêu diệt tất cả.

Hàng giám mục địa phương báo cáo về Tòa Thánh như sau:

'Hàng giáo sĩ chúng tôi đã đứng ra bênh vực người da đỏ, chống lại thực dân. Có người dùng bạo lực, có người dùng lời cầu nguyện. Cả hai đều đã chết. Họ đã chết, nhưng dường như họ vẫn sống. Còn chúng tôi, hàng giám mục thì vẫn còn đang sống. Chúng tôi đang sống, nhưng dường như chúng tôi đã chết!'

Nội dung chuyện phim cùng với giọng truyền cảm của cha giáo Chương làm mình xúc động. Có lẽ mình còn phải suy nghĩ đề tài này nhiều năm nữa."

 Cách đây khá lâu, tôi đã có dịp coi phim 'Les Missions'. Nhưng vì cuộc sống xô bồ, có quá nhiều chuyện để lo toan, suy nghĩ nên gần như tôi đã quên hết, không nhớ nội dung cuốn phim nói gì, ngoại trừ những màn chém giết thô bạo của những kẻ khát máu trên đường săn tìm thuộc địa. Những lời kể chuyện của cha giáo Chương làm cha Piô xúc động. Và tôi, người đọc những dòng nhật ký trên đây cũng nghẹn ngào xúc động theo.

http://www.tiengnoigiaodan.net/nktg/02chahau.jpg

Cha Piô Ngô Phúc Hậu xúc động về những cảnh tượng bi đát, thê thảm trong  phim. Hơn thế nó còn là đề tài khiến cha phải suy nghĩ thêm trong nhiều năm nữa. Thông thường khi chứng kiến hoặc nghe kể lại tình tiết một câu chuyện thương tâm, mấy ai mà nén được lòng xúc động. Cơn xúc động sẽ tăng lên thập bội nếu nó lại là tấm gương phản chiếu những gì đã và đang xảy ra chung quanh xã hội mà mình đang sống. Phải chăng tâm trạng của cha Piô ở trong hoàn cảnh này?

Đã đành hiện tại không có những cảnh giết chóc tàn nhẫn như trong phim ảnh. Tuy nhiên, nguyên nhân và hậu quả của lòng tham, của bạo lực thì chuyện ngày xưa hay chuyện ngày nay cũng chỉ là một. Biết bao ruộng vườn, cơ nghiệp, tài sản của lương dân, kể cả những bất động sản thuộc quyền sở hữu của các tôn giáo đã bị chế độ  độc tài toàn trị cộng sản Việt nam trưng thu dùng làm nơi đóng quân, kho chứa hàng, thậm chí còn được cải biến thành những nơi giải trí thiếu lành mạnh tại nửa phần đất nước ở miền bắc sau năm 1954 và tại miền nam sau năm 1975.

Dù sao, đối với các tôn giáo, đấy cũng chỉ là những thứ thuộc về vật chất, chưa hẳn đã khiến người trong cuộc quan tâm. Nó là lý do khiến nhiều vị lãnh đạo tinh thần các tôn giáo, cách riêng giáo hội Công giáo, sau khi cộng sản tiến vào Sàigon 26 năm trước, đã tự nguyện hiến cho nhà nước những cơ sở vật chất của giáo hội với ảo tưởng sẽ không bị khống chế, lấn lướt về mặt tinh thần, thiêng liêng để được tự do giữ đạo và hành đạo. Nhưng sự thể hoàn toàn trái hẳn.

 Càng ngày những người cộng sản càng thọc sâu bàn tay can thiệp vào sinh hoạt nội bộ của các giáo hội, từ việc tuyệt đối cấm đoán không cho in ấn, phổ biến sách báo, tài liệu tới chủ trương xen lấn cả vào việc điều hành Giáo hội, nhất là việc tuyển chọn, đào tạo giáo sĩ, truyền chức, cắt cử linh mục. Những tiêu chuẩn về khả năng, nhân cách, đức độ của ứng viên linh mục, kể cả giám mục, không còn hoàn toàn do giáo quyền ấn định mà phải tùy thuộc vào chuyện cho phép hay không cho phép của thế quyền! Đấy chính là căn do khiến cho cơn xúc động của tác giả nhật ký dâng cao, đến nỗi ông nhủ lòng là nó sẽ còn là đề tài cho ông suy nghĩ nhiều năm nữa.

Cùng một tâm trạng như cha Piô, hôm nay, người đọc nhật ký cũng không nén được lòng mình khỏi bồi hồi xúc động. Có khác chăng là cơn xúc động này quá mới mẻ và nóng bỏng. Nó gợi nhớ tới những gì vừa công khai vừa âm thầm đang diễn ra trong lòng giáo hội chúng ta hiện nay. Lúc này.

Bối cảnh làm nền cho bức tranh tạo nên cơn xúc động của tác giả nhật ký tuy đau buồn nhưng chưa trọn vẹn. Nó mới chỉ có một nửa. Ông mới chỉ có điều kiện để thấy cảnh tượng đám đông quần chúng thấp cổ bé miệng, trong đó bao gồm cả các tôn giáo, bị bạo lực xô vào chân tường. Nhưng chưa tới lúc cho ông cảm nhận được đến tận cùng cơn xúc động khi chứng kiến trong hàng giáo sĩ  như ông có những người đã can đảm đứng lên đối đầu với cường quyền, bạo lực, hết dạ tranh đấu cho quyền tự do tôn giáo và nhân quyền, nhân phẩm Việt nam, không phải bằng gươm súng nhưng bằng phương thức bất bạo động, tương tự như những nhà truyền giáo trong phim 'Les Missions' chỉ với niềm tin và lời cầu nguyện dám đương đầu với bạo lực, với vũ khí của thực dân để bảo vệ quyền sống và quyền tự do cho người dân da đỏ.

Điều khác là kết cục sau đó các nhà truyền giáo này đã bị thực dân thẳng tay giết chết còn những mục tử bạn của tác giả nhật ký truyền giáo như các linh mục Nguyễn Văn Lý, Nguyễn Hữu Giải, Phan Văn Lợi cùng với đám đông giáo dân Nguyệt biều, An truyền ở Huế và những trí thức Công giáo ở Hànội, Sàigòn như luật sư Nguyễn Văn Minh, các giáo sư Đỗ Hữu Nghiêm, Nguyễn Chính Kết trên đất nước Việt nam hôm nay mới chỉ bị chặn đường, cắt mọi phương tiện liên lạc với xã hội bên ngoài, bị bao vây kinh tế, bị mời đi 'làm việc' hết ngày này qua ngày khác, bị quản chế, bị tống giam và bị đem ra xét xử bằng luật rừng.

Nhưng chuyện ngày mai ra sao, ngoài Thiên Chúa, ai mà biết được ! Có điều chắc chắn ai cũng biết là ngay khi vừa tái phát động cuộc tranh đấu bất bạo động cho nhân quyền nhân phẩm Việt nam cuối năm 2000 vừa qua, cha Nguyễn Văn Lý và các bạn ông đã nêu cao khẩu hiệu Tự Do Tôn Giáo Hay Là Chết!

Có lẽ chi tiết trong cuốn phim 'Les Missions' đã gây nhiều xúc động nhất cho người nghe kể là cha Piô, và người đọc nhật ký của cha, hàm súc nơi nội dung bản tường trình của hàng giám mục địa phương gửi về Tòa Thánh sau đó. Sau khi ngậm ngùi ghi nhận là 'hoï -tức lớp giáo sĩ của các ngài- đã chết, nhưng dường như họ vẫn sống', những tác giả của bản tường trình là hàng giám mục bản quyền đã can đảm, và trong nỗi ân hận dày vò, thẳng thắn thú nhận rằng 'Còn chúng tôi, hàng giám mục thì còn đang sống. Chúng tôi đang sống, nhưng dường như chúng tôi đã chết!'

Nhẩm lại đoạn nhật ký trên đây một lần nữa, người đọc âm thầm tự hỏi. Nếu cha Piô Ngô Phúc Hậu còn tiếp tục ghi lại những trang nhật ký của ngài tới thời điểm này, không biết cha sẽ nghĩ gì và sẽ ghi lại những gì về những điều tai nghe mắt thấy đang diễn ra trong lòng giáo hội Việt nam hôm nay, giây phút này? Bối cảnh ảm đạm của bức tranh quê hương làm nền cho cơn xúc động của cha vào thời điểm đoạn nhật ký trên được ghi lại khi nghe tường thuật những tình tiết bi hùng chứa đựng trong cuốn phim 'Les Missions', lúc này đã được bổ túc khá trọn vẹn.

http://ngothelinh5.tripod.com/nvl/LM_NguyenVanLy_02.jpghttp://www.ledinh.ca/Bai%20PV%20LM%20Nguyen%20Huu%20Giai%202009%20A%201.jpghttp://www.ledinh.ca/Bai%20Phong%20Van%20Linh%20Muc%20Phan%20Van%20Loi%20Tu%20Duc%20Quoc.jpg

Vì đứng chung hàng ngũ với những giáo dân thấp cổ bé miệng ở Nguyệt biều chống lại chủ trương cướp đất nhà thờ của đảng và nhà nước cộng sản, cũng như vì không chấp nhận thảm cảnh Giáo hội mãi mãi bị tròng chiếc giây thòng lọng trên đầu trên cổ nên các linh mục Lý, Giải, Lợi đã trở thành đối tượng săn đuổi, bách hại triền miên của chế độ vô thần. Riêng cha Lý sau nhiều phen bị quản chế, bị bắt bớ, giam cầm, ngày 19 tháng 10 năm 2001, Hànội đã dùng luật rừng rú để kết án ngài thêm vừa tù ở vừa quản chế trong 20 năm! Cùng lúc, các cha Giải và Lợi cũng đang bị hăm dọa tống vào nhà đá bất cứ lúc nào.

Nếu trong phim 'Les Missions', vì một lý do nào đó, các giám mục địa phương đã án binh bất động, thủ khẩu như bình trước những hành vi đàn áp, bóc lột tàn nhẫn dân da đỏ của bạo quyền thực dân, để mặc cho hàng giáo sĩ của mình bênh đỡ kẻ khốn cùng trong cô đơn và sau đó đã bị giết đến người cuối cùng, thì ngày nay tuồng như bài học đau thương ấy lại đang tái diễn trong giáo hội của Chúa Giêsu nơi quê hương Việt nam khốn khó.

Trong suốt hơn một năm qua, kể từ khi cha Tađêô Nguyễn Văn Lý tái phát động cuộc đấu tranh cho tự do tôn giáo với nhiệt tình ủng hộ của hai cha Phêrô Nguyễn Hữu Giải, Phan Văn Lợi và giáo chúng Nguyệt biều, An truyền với bao nhiêu tai ương do guồng máy công an trị của bạo quyền cộng sản giáng xuống (khủng bố, dọa nạt, bao vây kinh tế, cắt đường dây điện thoại, tịch thu sách vở, máy vi tính, triệu tập đi 'làm việc' với công an, ra lệnh theo dõi, quản chế, bắt bớ, giam cầm và kết án bất công), tuyệt nhiên hàng giáo phẩm không hề một lần chính thức lên tiếng bênh vực, kể cả giáo quyền Huế là nơi có trách nhiệm trực tiếp với các nạn nhân!

Một câu hỏi được đặt ra là không biết quý đức cha trong Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã khi nào coi phim 'Les Missions' chưa ? Và nếu chưa thì liệu khi đọc đoạn nhật ký trên đây của cha Piô Ngô Phúc Hậu có lúc nào lương tâm các ngài cũng bị dằn vặt, cắn rứt như hàng giám mục trong cuốn phim này không? Bởi vì cho dẫu bị lâm cảnh tù đày khốn khổ như cha Nguyễn Văn Lý, bị làm khó dễ, bị tước bỏ mọi quyền tự do như các cha Nguyễn Hữu Giải, Phan Văn Lợi, bị đe noi, khủng bố và bị cắt đứt mọi phương tiện sinh nhai như giáo chúng Nguyệt biều, An truyền, như những trí thức Nguyễn Văn Minh, Nguyễn Chính Kết thì dường như những giáo sĩ và giáo dân này vẫn đang sống thong dong, thoải mái trong tinh thần tự do tuyệt đối của con cái Chúa.

Còn các đấng bậc trong giáo hội thì sao? Tâm hồn, trí não các ngài đang ở trạng thái nào? Câu trả lời đúng đắn và trung thực nhất cho những vấn nạn này chỉ có thể tìm thấy nơi những người trong cuộc. Như hàng giám mục trong cuốn phim 'Les Missions' dã công khai trả lời trong bản báo cáo Tòa Thánh.

Trần Phong Vũ 

2002

 http://www.songhuong.com.vn/imagesach/lon/02.40.10.16.07.07.jpghttp://www.dunglac.org/upload/book/1248321028.jpg

 



[1][79] Cán thốn: có lẽ là tiếng địa phương vùng Cái Răng vùng Cà mau, nam Việt để chỉ cán cuốc chăng? Tục ngữ miền bắc có câu: dốt đặc cán mai, ngu lòi cán cuốc.

 

 

 


Sách: Đức Giáo Hoàng Vĩ Nhân Thời Đại

www.tiengquehuong.com


http://diendangiaodan.com/bia_sach_fullsize/vi_nhan_thoi_dai1.jpg


Giáo Hoàng Gioan Phaolô II - VĨ NHÂN THỜI ĐẠI

Biên khảo của TRẦN PHONG VŨ

GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II - VĨ NHÂN THỜI ĐẠI gồm 29 chương sách, tổng hợp những kiến thức đúc kết từ nhiều tác phẩm của nhiều tác giả thời danh viết về con người, tư duy và hành động của Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, một con người đã sống và gắn bó với những biến cố vĩ đại của thế giới trong thế kỷ 20.

Nhiều năm trước, Trần Phong Vũ đã có tập biên khảo MỘT THOÁNG NHÌN VỀ GIÁO HỘI VIỆT NAM QUA BIỂU TƯỢNG ĐỨC GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II ghi lại về tiểu sử cùng những đóng góp quan trọng của Giáo Hoàng Gioan PhaoLô II trong biến cố sụp đổ chế độ cộng sản tại Ba Lan, Đông Âu, rồi Liên Xô.

Nhưng tác động từ cuộc sống của một nhân vật như Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đối với cuộc sống chung của nhân loại rõ ràng không chỉ khuôn hạn trong phạm vi các biến động về chính trị.

Là nạn nhân của hai chế độ bạo hành Đức Quốc Xã và Cộng Sản, từ thuở thiếu thời Ngài đã phải đấu tranh và không ngừng đấu tranh chống lại tất cả những chủ trương áp chế để đòi hỏi và bênh vực quyền sống cho con người. Đồng thời, Ngài cũng không ngừng đấu tranh chống lại tất cả những gì làm tổn thương đến đời sống tâm linh và tinh thần hiệp thông của Giáo Hội Công Giáo; đã triển khai đường hướng của Công Đồng Vatican II, đã đẩy mạnh tinh thần đại kết, đối thoại liên tôn, đặc biệt với Hồi Giáo và Do Thái Giáo.

Ngài còn không từ chối việc đối diện và tẩy rửa quá khứ qua nhiều cử chỉ sám hối, đặc biệt ngày 12 tháng 3 năm Toàn Xá 2000, trong một nghi lễ sám hối trang trọng, nhân danh toàn thể Giáo Hội Công Giáo, đã xin Chúa tha thứ mọi tội lỗi con cái Hội Thánh đã vấp phạm từ hai ngàn năm qua, nhất là những tội phạm liên quan tới sự thật, sự hiệp nhất và những tội phạm đối với dân Do Thái và nhân quyền.

Riêng đối với Đất Nước và Giáo Hội Việt Nam, Giáo Hoàng tỏ lòng ưu ái đặc biệt vì hoàn cảnh lịch sử đau thương và thời cuộc khắc nghiệt với tính chất gợi nhắc cảnh ngộ của Ngài với đất nước Ba Lan, đã chiếm một chỗ riêng trong trái tim Ngài khiến gần như không lúc nào Ngài không nghĩ tới Việt Nam như lời Ngài từng thốt lên: Việt Nam trong trái tim tôi !

29 chương với hơn 600 trang sách của tác phẩm GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II - VĨ NHÂN THỜI ĐẠI có thể chưa nói đủ về tác động từ cuộc sống của Giáo Hoàng Giaon Phaolô II đối với cuộc sống chung của nhân loại, nhưng có thể bảo là một tác phẩm khơi gợi những ý hướng tuyệt vời cho con người, đặc biệt là những người dân Việt Nam còn đang quật quã trong cảnh ngộ bị tước đoạt quyền sống, bị đày đoạ, dắùt dẫn vào những ngõ cụt tối tăm bởi các tham vọng chính trị mù quáng.

posted by www.tiengquehuong.com


Sách DGHVNTD giá bán $40.00 MK

Trích $20 yểm trợ các chiến sĩ quốc nội

Chi phiếu ghi Tieng Que Huong

Tủ sách
Tiếng Quê Hương
P.O. Box 4653 -
Falls Church, VA 22044

Email:
info@tiengquehuong.com

Monday, September 7, 2009


Từ "NGƯỜI TÍN HỮU TỐT"

tới "NGƯỜI CÔNG DÂN TỐT"

Trần Phong Vũ

I- Dẫn nhập

Ngày 24-8 vừa qua, bỗng dưng báo chí và các cơ quan truyền thông nhà nước CSVN nhất loạt lên tiếng kết án các linh mục Dòng Chúa Cứu Thế và giáo dân Thái Hà. Họ còn mượn huấn từ của đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI gửi phái đoàn các giám mục Việt Nam trong dịp viếng thăm Vatican ngót hai tháng trước đó để hỗ trợ cho những lời kết án hàm hồ với nhiều gian ý. Cùng ngày, trên mạng lưới VietnamNet, tờ báo điện tử được dư luận coi là công cụ phát ngôn bán chính thức của Hànội, người ta đọc được bài viết của Hiền Anh với tiêu đề "Một tín hữu Công giáo tốt là một công dân tốt".

Tiêu đề này đã được tác giả bài viết rút ra trong huấn từ của người cầm đầu GHCG hoàn vũ: "Về phần mình, các giáo dân Công Giáo cần chứng tỏ -qua cuộc sống dựa trên bác ái, lương thiện, yêu chuộng công ích,- rằng một tín hữu Công Giáo tốt cũng là một công dân tốt..." (Trích huấn từ của đức Bênêđictô XVI đọc trước phái đoàn 29 GMVN ở Vatican ngày 27-6-09).


Xin độc giả đặc biệt chú ý tới cụm từ "qua cuộc sống dựa trên bác ái, lương thiện, yêu chuộng công ích" trong văn mạch của huấn từ để hiểu điều cốt yếu này như là mấu chốt, là mối liên hệ tương tác bất khả ly giữa "một người tín hữu tốt" và "một người công dân tốt".

Từ nhận định trên đây, đọc qua nội dung bài viết của Hiền Anh trên VietnamNet, độc giả, không phân biệt tôn giáo, sẽ thấy ngay được dụng ý đen tối muốn lập lờ đánh lận con đen của tác giả, -chính danh là của guồng máy cầm quyền trong chế độ CSVN.

Trong bài này, người viết sẽ lần lượt trình bày khái quát thế nào là "người tín hữu tốt" và thế nào là "người công dân tốt", để từ đấy nhìn vào chiều sâu và chiều rộng của vấn đề liên quan tới đời sống của người dân trong bối cảnh quê hương và dân tộc cùng với những hiện tượng nghịch thường nối dài từ biến cố tòa Khâm Sứ, giáo xứ Thái Hà, Hànội tới biến cố xứ Tam Tòa giáo phận Vinh hiện nay.

II.- Thế nào là "người tín hữu tốt"?

Một cách khái quát: người tín hữu tốt là người sống trong khuôn khổ giới luật Yêu-Thương của Thiên Chúa. Trả lời câu cật vấn do các luật sĩ trong thời Ngài đặt ra là "giới răn nào trọng nhất", Chúa Giêsu nói: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là giới răn trọng nhất. Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn thứ nhất là: ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi. Toàn thể các lề luật và sách các Tiên tri đều tóm lại trong hai điều răn đó" (Mat. 22 – 36,40).

Như thế, bên cạnh bổn phận phụng thờ và yêu mến Thiên Chúa hết lòng, để nên trọn lành, người tín hữu Kitô còn có trách nhiệm phải yêu thương tha nhân như yêu chính bản thân mình. Thiếu một trong hai là thiếu tất cả (vì giới răn thứ hai cũng giống giới răn thứ nhất).


Tha nhân là người khác, là những cá thể thứ hai, thứ ba, là những người chung quanh mà những ai theo Chúa có trách nhiệm liên đới phải quan tâm, bệnh đỡ khi cần. Nó không phải là một trách nhiệm tùy tiện, có cũng được mà không cũng không sao. Trái lại, nó là một động thái phát xuất từ tâm tình hiệp thông, liên đới sâu xa, mật thiết giữa người với người –hơn thế- giữa những người con chung của Thượng đế.

Những tư tưởng trên đây được khơi nguồn sâu xa từ giao ước cũ và được hoàn tất bởi chính Ngôi Hai Thiên Chúa, Đấng đã đến trong thế gian để mở đầu kỷ nguyên Tân Ước. Sau bốn mươi ngày chay tịnh, vượt qua mọi cám dỗ của những thế lực trần gian, Chúa Giêsu bước vào Hội đường Nazarét, mở sách Tiên tri Isaia gặp đoạn Tin Mừng sau đây:

"Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, Người đã xức dầu tấn phong tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, chữa lành những người sầu khổ trong tâm hồn, loan tin giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được thấy, giải phóng người bị áp chế, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa". (Luc. 4 – 18,19).

Đấy là tóm tắt nhiệm cục cứu thế của Thiên Chúa Ngôi Hai. Và đấy cũng là lộ trình đã được Thiên Chúa mạc khải từ thuở đời đời cho những ai chọn bước theo Ngài.

III.- Thế nào là "người công dân tốt"?

Những bài học sơ đẳng về vai trò và trách nhiệm của người công dân đã dạy cho chúng ta những gì? Trước hết và trên hết là tinh thần yêu nước, thương dân. Đã sinh ra làm người trên mặt đất, bất cứ ai cũng đều có một Tổ Quốc để bảo vệ và một dân tộc với những di sản quý giá để yêu thương và gìn giữ[1]. -Một Tổ Quốc, một dân tộc mà trong quá trình dựng lập, tô bồi và phát triển với những giai đoạn chìm nổi phế hưng còn ghi lại biết bao công trình tim óc của những bậc tiền nhân anh dũng.

Từ đấy, lòng ái quốc, thương dân không còn là những ý niệm trừu tượng. Trái lại nó đã được cụ thể hóa bằng tri thức, thái độ và những hành vi biết ơn đối với những thế hệ đi trước, trong đó không thiếu những anh hùng, liệt nữ đã dày công hãn mã, đã đổ máu đào để xây dựng nên giang sơn, đất nước. Cũng từ đấy nó trở thành chất keo gắn bó với trách nhiệm liên đới giữa quá khứ với hiện tại, giữa người đồng thời và những thế hệ con cháu trong tương lai.

Trong thời chiến tranh loạn lạc, hơn ai hết, người công dân tốt hiểu được trách nhiệm của mình đối với sự tồn vong của quốc gia, dân tộc. Những ý niệm về mối liên hệ "môi răng" xuyên qua những châm ngôn, tục ngữ: "nước mất" hẳn "nhà tan" (quốc phá, gia vong), "quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách" (Sự hưng thịnh hay suy vong của đất nước dù kẻ tầm thường nhất cũng phải chia phần trách nhiệm), "giặc đến nhà, đàn bà phải đánh"… đã trở thành chuẩn mức để đo lường tinh thần dấn thân của người công dân trong cơn quốc biến.

Trong thời thái bình, an lạc, người công dân tốt ý thức được vai trò và bổn phận thiêng liêng của mình là phải hết lòng đóng góp công lao sức lực cho dân, cho nước, cho nhân quần, xã hội. Ở cương vị người công dân Công Giáo –nhất là công dân trong một thế giới mở rộng hôm nay, khi những ý niệm về tự do, dân chủ, công bằng, nhân ái và các quyền căn bản của con người đã trở thành chuẩn mức chung cho mọi dân tộc--, thì họ không thể nhắm mắt đóng góp một cách mù quáng cho những thể chế, những guồng máy cầm quyền phản dân, hại nước, đi ngược trào lưu chung của thế giới.


Trong trường hợp này, một cách tích cực, người công dân có lòng với đất nước còn có trách nhiệm phải cùng mọi công dân khác đâu lưng đấu cật, chung sức chung lòng, đấu tranh xây dựng một cơ chế cầm quyền biết tôn trọng quyền lợi chung của quốc gia dân tộc.

IV.- Mối liên hệ nhân quả, không thể tách rời

giữa "người tín hữu" và "người công dân"

Trong cuộc tiếp kiến 29 giám mục Việt Nam hôm 27-6 vừa qua, Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã có lý do chính đáng, dựa trên những thực tế cùng những thực chứng trong đời sống đức tin để qua các giám mục chuyển tới 7 triệu tín hữu Công giáo Việt Nam lời dạy của ngài là "một tín hữu (Công giáo) tốt cũng là một công dân (Việt Nam) tốt".

Không viện dẫn tới những luận lý trừu tượng mang tính triết học hay thần học xa vời, vị lãnh đạo tinh thần tối cao của thế giới Công giáo chỉ căn cứ vào những gì thiết thân, thật gần gũi, thật cụ thể "qua cuộc sống dựa trên bác ái, lương thiện, yêu chuộng công ích" được rút ra từ giáo lý căn bản của Giáo Hội để nói lên mối liên hệ nhân quả, tương tác, mang tính đương nhiên, không thể tách rời giữa bổn phận thiêng liêng của người tín hữu đối với Thiên Chúa, với Giáo Hội Công Giáo và trách nhiệm cụ thể của người công dân đối với quốc gia, dân tộc trong đời thường.

Chính từ mối liên hệ bất khả ly này khiến ngài xác tín là: khi người tín hữu Công Giáo luôn sống thực với niềm tin của mình, đi theo lộ trình mà từ thời Cựu Ước Thiên Chúa đã mặc khải cho họ (và khi khởi đầu kỷ nguyên Tân Ước, đã được tái xác định bởi chính Đấng Cứu Thế về sứ mạng rao giảng Tin Vui cho người nghèo khó, giải thoát kẻ bị gông cùm hay người bị áp chế…), thì hẳn rằng họ cũng không thể sống, tư duy hay hành động khác khi đặt mình vào cương vị người công dân.

Căn cốt của đạo Công Giáo là Bác Ái, là yêu thương chan hòa, rộng khắp: yêu Chúa hết lòng, hết trí khôn và yêu anh chị em như yêu chính mình. Một khi đã có tấm lòng bác ái như thế, người tin Chúa không thể chấp nhận lối sống quay quắt, gian ngoan, xảo quyệt, thiếu ngay lành thiện hảo --- không phải chỉ trong những giây phút tham dự hay cử hành những nghi thức phụng vụ trong giáo đường, mà ngay trong đời sống thường nhật, khi tiếp xúc với tha nhân, từ trong gia đình cho tới ngoài xã hội.


Và từ quan niệm sống ấy, khi chuyển vào hành động, người tín hữu sẽ nhận ra ngay trách nhiệm và bổn phận của mình trong việc mưu tìm công đạo và thiện ích cho chính bản thân cũng như cho những người chung quanh.

Đấy là con đường người tín hữu phải bước theo trong cuộc hành trình dương thế để mưu tìm hạnh phúc miên viễn đời sau. Cuộc hành trình dương thế ấy không phải đâu xa mà chính là bối cảnh cuộc sống của mỗi người trong phạm vi cá nhân, gia đình, trong mối liên hệ giữa người với người, giữa người công dân đối với quốc gia, xã hội.


Có điều cung cách phản ứng và hành xử vai trò công dân của người tín hữu không phải lúc nào cũng giống nhau. Với một quốc gia trong đó những quyền năng căn bản của con người được tôn trọng, sẽ không thiếu cơ hội cho mọi công dân, không phân biệt giai cấp, thành phần hay dị biệt tôn giáo, chính kiến, đóng góp phần mình vào công cuộc xây dựng chung.

V.- Ứng dụng vào hoàn cảnh

xã hội Việt Nam hôm nay

Sau tháng tư năm 1975, toàn thể lãnh thổ Việt Nam bị áp đặt dưới chế độ cộng sản độc tài chuyên chính. Quyền tư hữu và tất cả mọi quyền tự do căn bản của con người, đặc biệt là quyền tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo của hơn 80 triệu đồng bào đều bị thâu tóm vào trong tay một thiểu số đảng viên cộng sản.

cộng sản

Những người nắm quyền sinh sát trên đất nước Việt Nam hôm nay đã công nhiên minh thị là họ đang trụ trên những quyền lực tăm tối của một xã hội đen. Họ thống trị đất nước và dân tộc bằng vũ khí, bằng sắt máu được hỗ trợ bởi một hệ thống luật lệ rừng rú, bất khoan dung đối với tất cả những nguyện vọng chính đáng mà con người lẽ ra phải được hưởng dụng. Kết quả nhìn thấy là toàn thể đất nước ta hôm nay đã biến thành một thứ nhà tù vĩ đại.

Ngoài những trại giam thật sự được dựng lên khắp nước để cầm chân và đày đọa những thành phần kiên trì đấu tranh cho tự do, dân chủ, cho nhân quyền, nhân phẩm Việt Nam (gồm đủ mọi thành phần, từ các nhà tu hành tới những người trí thức như luật sư, giáo sư, bác sĩ, kỹ sư, nhà văn, nhà báo, kể cả thành phần khố rách áo ôm, chân lấm tay bùn), trên khắp mọi miền đất nước hôm nay, từ thành thị tới nông thôn, từ miền đồng bằng tới các vùng sâu, vùng xa, mọi tầng lớp dân chúng đang phải gục đầu chấp nhận một cảnh sống o ép, khổ đau, thiếu thốn trăm bề.

Hệ quả đau thương nhìn thấy là hàng trăm ngàn thanh niên, thiếu nữ đã phải bán sức lao động ra nước ngoài, trong số không biết bao bé gái vị thành niên đã phải dấn thân vào nghề mãi dâm để tìm kế sống cho gia đình. Trong nhiều năm qua, trên đường phố Sàigòn, Hànội, mỗi ngày người ta bắt gặp hàng trăm, hàng ngàn những Dân Oan kéo nhau tới các công sở nhà nước để khiếu kiện, vì bị mất nhà, mất đất, không công ăn, việc làm, vì nạn cường hào ác bá thời đại ở địa phương.


Đấy là chưa nói tới mối hiểm nguy đang đe dọa sự an toàn lãnh thổ: đảng và nhà nước CSVN đang nhắm mắt rước kẻ thù truyền kiếp của dân tộc là Trung Hoa Đỏ vào xâm chiếm đất nước ta.

Từ những thủ đoạn lấn chiếm biên giới, cướp trắng Trường Sa, Hoàng Sa, ngăn cấm đe dọa sinh mạng ngư dân Việt không cho họ ra khơi đánh cá ngay trên hải phận của mình, tới việc đưa cơ giới công nhân vào vùng Cao Nguyên khai thác mỏ Bô-Xít, bất chấp những nguy cơ về hủy hoại môi trường, hủy hoại văn hóa, đe dọa an ninh quốc gia.


Điều nghịch lý là tất cả những hành vi trịch thượng của quân cướp nước kể trên đã được sự mặc nhiên chuẩn nhận của đảng và nhà nước CSVN khi họ thẳng tay đàn áp, khủng bố, bắt bớ những thanh niên, sinh viên tham gia biểu tình chống chính sách bành trướng của Bắc Kinh và các nhà báo khi lên tiếng về vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa hoặc vấn đề khai thác mỏ Bô-xít ở Tây Nguyên.

Như bóng tối kỵ ánh sáng, những kẻ ác độc không chấp nhận người hiền lương, ngay từ những ngày đầu mới du nhập vào đất nước ta, chủ nghĩa cộng sản đã tự đặt mình vào thế đối kháng với mọi tôn giáo. Bằng những thủ đoạn khác nhau, khi công khai khi ngấm ngầm, đảng và nhà nước CSVN tìm mọi thủ đoạn để hủy diệt niềm tin tôn giáo nơi người dân: Phá hủy giáo đường, chùa miếu, thánh thất để những người tin không có nơi thờ tự; bắt bớ, giam cầm những nhà tu, những chức sắc thuộc mọi tôn giáo; trưng thu đất đai, tài sản và các cơ sở của các tôn giáo, bao gồm bệnh viện, cô nhi viện, trường học và các nhà dưỡng lão do các giáo hội quản trị.


Họ tưởng làm như vậy là có thể tiêu diệt được niềm tin nơi người dân. Nhưng họ đã lầm. Sau hơn một nửa thế kỷ thống trị miền Bắc, niềm tin tôn giáo vẫn sống mãnh liệt trong lòng người. Những cuộc vận động đấu tranh ôn hòa bằng lời cầu nguyện của hàng ngàn, hàng vạn giáo dân ở tòa Khâm Sứ, ở Thái Hà dưới sự hướng dẫn công khai của các linh mục Dòng Chúa Cứu Thế và sự đồng tình của đức TGM Hànội Ngô Quang Kiệt trong hai năm trước, cùng với sự kiện nhiều trăm ngàn giáo dân ba tinh Nghệ-Tĩnh-Bình thuộc giáo phận Vinh vài tháng qua nhất tề đứng lên cầu nguyện cho Tam Tòa là những bằng chứng thật cụ thể.



Cho dù với những thủ đoạn hèn hạ, nhơ nhuốc, vì muốn chứng tỏ uy quyền (dù là uy quyền của kẻ cướp!), vì muốn giữ thể diện (dù là thể diện của tập đoàn Mafia Đỏ!) và cũng vì lý do thâm sâu là "không được ăn thì đạp đổ", đảng và nhà nước CSVN đã miễn cưỡng lần lượt biến khu đất tòa Khâm Sứ, khuôn viên nhà thờ Thái Hà thành cái gọi là "Công Viên Xanh" như họ đang làm ở Tam Tòa lúc này… thì nó vẫn chứng tỏ cho công luận trong và ngoài nước thấy rõ sự thảm bại của một nhà nước đã hoàn toàn mất lòng dân, những người dân luôn sống lương thiện, bác ái, sẵn sàng dấn thân làm việc cho công ích và cho phúc lợi của con người.

VI.- Khi báo chí, truyền thông trở thành công cụ của một đảng độc tài

Với người dân miền Bắc hơn 50 năm và người dân miền Nam ngót 35 năm sống trong chế độ cộng sản, mọi người đã có quá nhiều kinh nghiệm về vết nhơ của cái gọi là báo chí và truyền thông. Trong khi cả trăm năm trước, thế giới tự do đã tôn vinh báo chí, truyền thông là Đệ Tứ Quyền, -quyền thứ tư của con người-, theo sau các quyền Lập Pháp, Hành Pháp và Tư Pháp trong hệ thống điều hành guồng máy quốc gia, thì tại các nước cộng sản, cách riêng tại Việt Nam, nó chỉ là một thứ công cụ của đảng và nhà nước cộng sản để khóa miệng, bịt mắt người dân.

Tạm gác một bên những chuyện cổ tích của mấy chục năm trước. Chỉ cần nhìn vào cung cách hành sử quyền thứ tư của hơn 600 tờ báo và hàng chục đài phát thanh, phát hình ở Hànội, Sàigòn qua những biến động ở tòa Khâm Sứ, ở Thái Hà và gần đây ở Tam Tòa thuộc Giáo Phận Vinh, những người ít theo dõi thời cuộc nhất cũng đã nhận ra tính nô bộc, bất cố liêm sỉ của những tay bồi bút, và qua đó của cả một tập đoàn thống trị đang trụ trên những quyền lực bất chính của một xã hội đen ở Việt Nam ngày nay.

Không cần phải có trí nhớ tốt, mọi người đều chưa quên những trò nhào nặn, cắt xén chữ nghĩa của các tay phù thủy trong làng báo Hanội để xuyên tạc những lời tuyên bố công khai có bài có bản của đức cha Giuse Ngô Quang Kiệt, TGM Hànội hồi năm ngoái. Gần đây nhất là vụ Tam Tòa, trong đó ai cũng nhận ra chủ trương và thái độ nhất loạt xếp hàng theo chỉ thị đảng và nhà nước cộng sản của báo chí, truyền thông trong nước.

Cảnh tượng đau lòng khi giáo dân, linh mục bị an ninh nhà nước đội lốt du đãng đánh trọng thương phải vào bệnh viện và cảnh 2, 3 trăm ngàn giáo dân lũ lượt tìm về cầu nguyện cho Tam Tòa ở Xã Đoài không hề được loan tin trên các báo đài. Trong khi ấy, họ lại trắng trợn đưa tin, trưng dẫn hình ảnh về điều nhà nước và các cơ quan an ninh nói là "lương dân tự phát" đang chửi bới, hành hung những giáo dân bị cột cho tội phá rối cuộc trị an của nhà nước!

Thật ra, đấy chỉ là phản ứng của những kẻ cùng đường. Bởi vì, với những phương tiện thông tin tân tiến ngày nay, qua hệ thống internet toàn cầu, qua hệ thống điện thoại di động có thể vửa gửi tiếng nói vừa gửi hình ảnh tới người thân ở trong cũng như ngoài nước, nhất là qua những nhà báo quốc tế mà vì lý do bất khả kháng không thể ngăn cấm triệt để, trường hợp những giáo dân, linh mục bị đả thương, chuyện hàng trăm ngàn giáo dân tìm về cầu nguyện tại Xã Đoài đã được loan truyền rộng rãi khắp nơi, rồi từ khắp nơi dội ngược về quốc nội để cho chính người dân trong nước được nghe, được thấy.

http://www.topnews.in/files/pope-II.jpg http://biega.com/photoalbum/Pope%27svisitPoland1979.jpg


Chẵn 30 năm trước, trong chuyến viếng thăm quê hương Ba Lan của ngài lần thứ nhất, cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị đã làm rung rinh guồng máy cộng sản quốc tế, mặc dầu với chủ trương bưng bít sự thật, cơ cấu kiểm soát và khống chế báo chí truyền thông của Ba Lan đã tìm hết cách để giới hạn việc đưa tin về những lời tuyên tín cùng những hoạt động của ngài. Nhưng sự thật vẫn là sự thật.


Cuối cùng, những tiếng nói của yêu thương và của lương tâm công chính vẫn đến được với người dân Ba Lan và nói chung người dân tại các quốc gia Đông Âu, để như những hạt giống ươm ủ trong lòng đất, ngót mười năm sau, theo chân Ba Lan, toàn bộ các nước Đông Âu, bao gồm cả cái nôi của chủ nghĩa cộng sản quốc tế là Liên Bang Sô Viết đã theo nhau sụp đổ[2] để cho Hoa Tự Do đua nhau nảy mầm kết trái.


Cho nên, cung cách lập lờ đánh lận con đen của tác giả Hiền Anh khi trích câu "Một tín hữu Công giáo tốt là một công dân tốt" trong đáp từ của ĐGH Bênêđictô XVI nói với 29 giám mục Việt Nam để dùng làm tiêu đề cho bài viết công bố trên VietnamNet ngày 24-8 vừa qua vẫn không ngoài chủ trương bóp méo ngôn từ để lèo lái công luận. Nó không lừa được ai. Hơn thế nó còn có tác dụng ngược đối với những ai am tường tư duy và lối sống niềm tin của những tín hữu Công Giáo chân chính.

Nếu đọc hết mạch văn trong đoạn đáp từ kể trên của vị Giáo Chủ, chúng ta sẽ thấy, trước khi nhấn mạnh tới mối liên hệ tương tác "một tín hữu Công Giáo tốt cũng là một công dân tốt", ngài không quên đề cập lối sống niềm tin của người tín hữu là "dựa trên bác ái, lương thiện, yêu chuộng công ích" -những thứ hoàn toàn đi ngược với chủ trương và đường lối hành sử của người cộng sản-, để làm tiền đề cho cụm từ tiếp theo..

Những người muốn bảo vệ niềm tin tôn giáo của mình ở Việt Nam ngày nay, trong số có 7 triệu tín hữu Công Giáo, đang phải đối diện với biết bao gian nan thử thách. Họ muốn thể nghiệm tinh thần yệu thương với đồng bào, đồng đạo, nhưng tất cả mọi phương tiện đều bị bóc lột trắng tay.


Sau các Thánh đường, Chùa chiền, Thánh thất là nơi đào luyện con người biết sống tử tế, các nhà thương, bệnh xá, viện cô nhi, viện dưỡng lão cũng bị cướp sạch. Họ muốn sống ngay lành, lương thiện và chỉ vẽ cho con em và các thế hệ đi sau sống ngay lành, lương thiện, có văn hóa, biết lẽ phải trái ở đời và để biết yêu chuộng và mưu cầu công ích, công lợi cho tha nhân, nhưng cả một hệ thống trường ốc đồ sộ, từ mẫu giáo tới đại học do Giáo hội làm chủ đều bị nhà nước trưng thu, các nhà giáo dục chân chính bị xua đuổi, cầm tù.

Khi giáo dân ở Hànội tụ tập cầu nguyện đòi nhà nước trả lại tòa Khâm Sứ, trả lại đất đai, tài sản của giáo xứ Thái Hà, khi hàng trăm ngàn giáo dân Vinh cầu nguyện cho Tam Tòa thì các cơ quan an ninh, công an, cảnh sát với vũ khí, chó săn và bọn du thủ du thực đã tìm cách đàn áp thẳng tay. Vẫn chỉ là trò hề "không ăn được thì đạp đổ"


. Rập khuôn những kịch bản rẻ tiền ở tòa Khâm Sứ, ở Thái Hà năm trước, đảng và nhà nước CSVN -với sự tiếp tay của những loại chiên ghẻ, đã bị sa vào bả lợi danh, núp sau chủ nghĩa tương đối, một chủ nghĩa từng bị ĐGH Biển Đức 16 nhiều lần cực lực lên án- lại đang muối mặt đưa xe ủi đất tới Tam Tòa để trong sớm chiếu biến nơi đây thành một thứ chứng tích dị dạng mà họ gọi là "Công Viên Xanh"!

Và để lấp liếm hành vi tồi tệ này, cả một hệ thống báo chí và truyền thông đã được Hànội vận dụng, không ngoài mục tiêu đánh lạc hướng dư luận. Từ đấy đã có bài viết của Hiền Anh trên VietnamNet ngày 24-8 vừa qua

Tạm kết I

Không phải ngẫu nhiên mà trong phần mở đầu Lời Chủ Chăn tháng 9-2009 với tiêu đề "Giáo dục Kitô giáo và Giáo huấn của Giáo Hội về xã hội" công bố chỉ một ngày sau đó (ngày 25-8-2009), HY Gioan Baotixinta Phạm Minh Mẫn, TGM Sàigòn, cũng đã trích lại lời nhắn nhủ "Người công giáo tốt là người công dân tốt" của ĐGH.

Sau khi nhấn mạnh là "Ngày 8.7.2009, trước cử toạ nhiều ngàn người thuộc nhiều quốc gia quy tụ trong Hội trường Phaolô VI, cạnh đền thờ Thánh Phêrô, chính Ngài đã giới thiệu Thông điệp đó (TĐ Bác Ái trong Chân Lý) như chỉ nam cho sự phát triển con người thành người tốt góp phần xây dựng một cộng đồng nhân loại mới sống trong chân lý và tình yêu, trong công lý và hoà bình. Chân lý và tình yêu, công lý và hoà bình, là bốn giá trị trụ cột của Tin Mừng. Xây nhà - nhà riêng hay nhà chung, nhà thờ hay nhà nước - trên bốn giá trị trụ cột đó là xây nhà trên nền đá vững chắc, và nhà sẽ tồn tại vững bền qua mọi thử thách của thời gian", người cầm đầu TGP Sàigòn đã đưa vào bài viết nguyên văn lời giới thiệu Thông Điệp kể trên của ĐGH để thay cho những gì ngài muốn thông đạt tới các giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ và toàn thể giáo dân trong TGP.

Sau đây là những trích đoạn gói ghém những tư tưởng cốt yếu trong lời giới thiệu này:

"… tình yêu trong chân lý là động lực chính cho sự phát triển đích thực của mỗi người cũng như của toàn thể nhân loại. Chính vì thế, toàn bộ giáo huấn của Giáo Hội về xã hội xoay quanh nguyên lý "Bác Ái trong Chân Lý". Chỉ với tình yêu được lý trí và đức tin soi sáng, loài người mới có thể vươn tới những mục tiêu phát triển mang tính nhân bản và nhân hoá. Là nguyên lý nền tảng cho giáo huấn của Giáo Hội về xã hội, tình yêu trong chân lý mang tính tiêu chuẩn cho mọi hành động luân lý của con người…"

"… Theo như tin tức được phổ biến rộng rãi trong những ngày tháng gần đây, tình hình thế giới liên tục làm xuất hiện những vấn đề nghiêm trọng, và chướng kỳ của những bất bình đẳng rõ ràng đang tiếp tục tồn tại bất chấp những nỗ lực trong thời gian qua…"

"… Thông điệp nhắc lại những nguyên tắc căn bản cần thiết cho công cuộc phát triển con người trong những năm sắp đến. Những nguyên tắc đó gồm có trước hết là mối quan tâm đến sự sống con người, được coi như trọng tâm của công cuộc phát triển chính thực; thứ đến là sự tôn trọng tự do tôn giáo là điều luôn luôn gắn liền với sự phát triển con người…"

"… Rõ ràng là vai trò và quyền hạn chính trị của các nhà nước cần được thận trọng thẩm định lại vào một kỷ nguyên mà bối cảnh kinh tế, giao thương và tài chính của thế giới hạn chế quyền lực tối cao của họ…"

"… lương tâm phải được huấn luyện và phải biết chú tâm đưa những tiêu chuẩn luân lý vào trong phác thảo những dự án. Nhiều người lên tiếng nhắc nhở rằng những quyền con người phải đi đôi với những nghĩa vụ làm người, bằng không quyền đó có nguy cơ trở nên độc tài…"

"… Tôi nguyện cầu cho người tín hữu đang hoạt động trong lãnh vực kinh tế và chính trị, hiểu rằng chứng từ Tin Mừng của mình thật sự quan trọng trong nhiệm vụ phục vụ đất nước và thế giới hôm nay…" (Những đoạn tô đậm là do người viết).

Giữa những hàng chữ trên đây, chúng ta hiểu người cầm đầu Giáo Hội Công Giáo Thế Giới muốn nói gì với những anh em tín hữu của ngài, cách riêng với người tín hữu công dân Việt Nam, trong đó bao gồm cả hàng giáo phẩm. Và một cách nào đó, ngài cũng gián tiếp nói với những nhà lãnh đạo các quốc gia trên thế giới, dĩ nhiên có đảng và nhà nước CSVN.

Tạm kết II

Bài viết của tác giả Hiền Anh xuất hiện trên VietnamNet cùng lúc với sự kiện báo chí truyền thông Hànội mở lại chiến dịch bôi bác và kết án các linh mục Dòng CCT và giáo dân trong vụ tòa Khâm sứ và Thái Hà trước đây. Nó cũng trùng hợp với nguồn dư luận được loan truyền rộng rãi trong những ngày qua là đức cha Giuse Ngô Quang Kiệt, đã đệ đơn từ chức TGM Hànội (?). Người ta chưa quên được lá bài chủ yếu của đức cha trong vụ này.

Câu hỏi đặt ra là những sự kiện trên đây có liên hệ gì tới những hiện tượng nghịch thường qua màn kết bất ngờ không ai chờ đợi của biến cố Tam Tòa và vai trò tương lai của Chủ tịch HĐGMVN Nguyễn Văn Nhơn, TGM Huế Nguyễn Như Thể, giám mục giáo phận Đà Nẵng Châu Ngọc Tri là những vị được tác giả Hiền Anh đặc biệt nêu tên trong phần mở đầu bài viết của ông?

Chúng ta hãy kiên nhẫn chờ xem

http://www.dcvonline.net/php/images/102008/tranpv.jpg

Trần Phong Vũ,

Nam California,

ngày Thứ Năm 03-9-2009


[1] Xin đọc bài Con Có Một Tổ Quốc của cố HY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận (đã được phổ nhạc)

[2] Sau đây là một đoạn trích trong tác phẩm "Giao Hoàng Gioan Phaolô II, Vĩ Nhân Thời Đại" của TPV do tủ sách Tiếng Quê Hương ấn hành lần đầu năm 2005, tái bản lần thứ nhất năm 2006 (trang 148-149):

"…Trong khi nhà nước cộng sản tại Varsovie tìm mọi cách để mong hạn chế tối đa ảnh hưởng của truyền thông quốc nội đối với cuộc viếng thăm mục vụ tại Ba Lan lần thứ nhất của Đức Gioan Phaolô II, thì sự có mặt của hơn 1,000 ký giả và phóng viên quốc tế đã tạo nên những hậu quả trái ngược. Với những bản tường trình kèm theo những hình ảnh sống động, giới truyền thông ngoại quốc đã bổ túc cho khán thính giả Ba Lan biết thêm những gì mà báo chí, truyền thanh, truyền hình nhà nước cố tình cắt xén không muốn cho họ thấy. Mặt khác, nó cũng loan truyền rộng rãi cho thế giới, đặc biệt là dân chúng tại các quốc gia Đông Âu như Tiệp Khắc, Hung Gia Lợi, Đông Đức, Lỗ Ma Ni, kể cả Liên Bang Xô Viết, thấy tận mắt, nghe tận tai những gì đang xảy ra tại một quốc gia đồng minh của họ.

Kể từ ngày thứ ba, 04 tháng 6 năm 1979, cuộc viếng thăm trở thành một cuộc hành hương chiến thắng của vị Giáo Hoàng thứ 264 của Giáo Hội Công Giáo đối với chính những đồng bào của ngài. Hàng triệu người dân Ba Lan hãnh diện bước đi trong niềm phấn khởi hướng về Đức Gioan Phaolô II, vị chủ chiên và cũng là người đồng hương ái quốc của họ.

Tất cả những biện pháp giới hạn của nhà nước đã trở nên chuyện dã tràng xe cát. Không những nó tỏ ra không hữu hiệu mà còn là những biểu chứng phản tuyên truyền. Những rào cản do công an cảnh sát thiết lập trên khắp đoạn đường 18 dậm dẫn tới Czestochowa nhằm kiểm tra, đồng thời tìm cách giới hạn số người tới dự kiến đã hiển nhiên trở thành tang chứng của một chế độ độc tài, đảng trị.

Mặt khác, những biện pháp kiểm duyệt áp đặt trên các cơ quan truyền thông, nhất là tuyền hình nhằm ngăn chặn sự theo dõi của dân chúng Ba Lan bên ngoài Czestochowa, không những vô hiệu mà còn gợi thêm sự tò mò muốn tìm hiểu biến cố có một không hai của quần chúng. Xảo thuật nhằm giới hạn tầm quan sát của khán giả vào một mình Giáo Chủ Gioan Phaolô Đệ Nhị và giới thân cận của ngài trên các lễ đài chỉ làm cho tình trạng thêm tồi tệ, khi mà từng chập, những người theo dõi vẫn nghe được những tràng vỗ tay như biển động của đám đông quần chúng sau những lời tuyên tín hùng hồn của vị Giáo Chủ Công Giáo hoàn vũ…"